ĐƯỜNG XƯA MÂY TRẮNG - CHƯƠNG 1
Năm đầu khi mở cửa Làng Mai vào mùa hè, tôi thường
hay cư trú trên phòng của cư xá Hồ Đào gần với cây Tilleul. Ở dưới có quán sách
và ở trên là phòng tôi ở. Vào năm đầu và năm thứ hai chúng ta có ít phòng lắm
nên tôi đã ngủ chung với mấy thiếu nhi. Bốn năm đứa trẻ ngủ chung với tôi và
ban đêm các cháu đã nằm lăn ra khắp nơi. Bài hát “Con về nương tựa Bụt, người
đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời…” tôi có chủ ý làm cho thiếu nhi hát.
Tôi nghĩ là thiếu nhi phải hát chứ tụng thì chưa đủ. Hôm đó tôi ngồi thiền buổi
chiều trong thiền đường Yên Tử. Trước mặt tôi có một tảng đá vì các bức tường
của thiền đường Yên Tử đều được xây toàn bằng đá. Đang ngồi thiền thì thấy tự
nhiên những nốt nhạc của bài “Con về nương tựa Bụt” đi ra. “Con về nương tựa
Bụt, Namo Buddhaya”. Sau đó tôi sửa lại “Con về nương tựa Bụt, người đưa đường
chỉ lối cho con trong cuộc đời” rồi mới tới “namo Buddhaya”.
Tôi tự nghĩ: “Mình đang ngồi thiền chứ đâu phải
đang sáng tác nhạc. Thôi để ngồi thiền xong rồi sẽ sáng tác tiếp.” Nhưng ngồi
một lát nữa thì những nốt nhạc lại trở về. Tôi nghĩ: “Thôi, nếu đã như vậy thì
mình sáng tác ngay lúc này.” Và trong khi ngồi thiền tôi tiếp tục sáng tác bài
“Con về nương tựa Bụt”. Ngồi thiền xong thì tôi ra thâu bài hát vào băng nhựa
vì sợ quên. Trong thời gian thiền sư Baker Roshi tới thăm Làng Mai, tôi đã khởi
thảo tập sách Thiền Hành Yếu Chỉ . Rất nhiều người muốn có một tập sách hướng
dẫn về thiền đi. Sau đó thì những bài thi kệ nhật dụng bằng tiếng Việt được
sáng tác. Tôi còn nhớ là hồi đó tôi viết Đường Xưa Mây Trắng ở trong cái quán
của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái
lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay
phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương
của Đường Xưa Mây Trắng với rất nhiều hạnh phúc. Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha
trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn.
Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết, mình cũng đang có
rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt
nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi
cho là khó viết, như đoạn Bụt độ ba anh em ông Ca Diếp. Tài liệu thường nói là
Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài nhưng khi viết thì tôi đã không để
cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba
ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà
lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chãi là mình sẽ viết
được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây
Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Cái chương khó thứ hai là chương nói
về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Mình đã thành Phật rồi, mình đã thành
bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình mình vẫn còn là một đứa con của cha,
của mẹ, vẫn là một người anh của em. Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại
được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc
lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ
ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và
Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư tổ gia hộ nên tôi mới viết như
vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người
chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả, giúp cho người
ta khám phá lại Bụt như một con người và lột ra hết các vòng hào quang thần dị
người ta đã choàng lên cho Bụt. Không thấy Bụt như một con người thì người ta
sẽ tới với Bụt rất khó.
Thích Nhất Hạnh.
Chương 1: ĐI ĐỂ MÀ ĐI
Trong bóng me im mát vị
khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế
hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm
chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực
tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc trong những chiếc am lá nhỏ dựng rải
rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh.
Bụt hiện đang cư trú trong tu viện này cùng với khoảng gần bốn trăm vị khất sĩ,
học trò của Người. Tu viện đông như thế mà vẫn thanh tịnh. Đất của tu viện rộng
đến bốn chục mẫu. Những giống tre trồng ở tu viện đều là những giống tre đẹp
khỏe, lấy từ khắp nơi trong vương quốc Magadha . Tu viện tọa lạc ở phía bắc
thành Vương Xá. Tu viện này do chính vua Bimbisara hiến tặng cho Bụt, và cho
giáo đoàn khất sĩ của Người cách đây bảy năm.
Svastika mở mắt. Chú mỉm cười. Hai bắp chân chú đã mỏi. Chú tháo chân ra khỏi
tư thế hoa sen và bắt đầu xoa bóp cho máu chạy đều trong hai chân. Svastika năm
nay mới hai mươi mốt tuổi. Chú chỉ mới được xuống tóc và thọ giới khất sĩ cách
đây ba hôm. Thầy Sariputta, một trong những vi cao đệ của Bụt đã làm lễ truyền
giới cho chú.
Svastika quê ở Uruvela gần Gaya ,
chú được làm quen với Bụt ngay từ hồi Bụt chưa thành đạo, cách đây đúng mười
năm. Hồi đó chú mới mười một tuổi.
Bụt thương chú lắm, cách đây nửa tháng, Bụt ghé lại làng Uruvela tìm chú. Bụt
đưa chú về đây, và Bụt đã bảo thầy Sariputta truyền giới khất sĩ cho chú. Được
chấp nhận vào giáo đoàn của Bụt, Svastika sung sướng lắm.
Chú nghe nói trong giáo đoàn của Người có rất nhiều vị khất sĩ xuất thân từ
giới quyền quý, như thầy Nanda. Thầy Nanda cũng là hoàng thái tử, em ruột của
Bụt. Lại có những vị hoàng thân khác như Bhaddiya, Devadatta, Anuruddha và
Ananda. Chú chưa đựơc trực tiếp chắp tay chào hỏi các vị nầy, tuy chú đã được
trông thấy họ.
Các vị này tuy đã đi tu, tuy đã khoác những chiếc áo cà sa bạc màu trên người
nhưng dáng điệu vẫn còn mang tính cách thanh lịch và quý phái. Svastika có cảm
tưởng là còn lâu lắm chú mới làm quen thân được với các vị.
Bụt là một vị hoàng tử con vua thật đấy, nhưng Svastika không còn tìm thấy được
sự ngăn cách nào giữa Người và chú.
Có lẽ vì chú quen với Bụt lâu rồi và ngày xưa đã từng ngồi với Bụt hàng giờ
hoặc trên bờ sông Neranjara hoặc dưới cội bồ đề im mát. Chú thuộc về hạng những
người cùng đinh, những người thấp kém và nghèo khổ nhất ở xứ chú.
Chú đã làm nghề giữ trâu trên mười năm nay.
Trong vòng nửa tháng vừa qua, chú đã chung đụng với những người tu thuộc giai
cấp quý tộc. Những người này đều là khất sĩ và là học trò của Bụt. Tuy họ rất
tử tế với chú, tuy họ đã nhìn chú với con mắt có cảm tình và nhiều khi đã mỉm
cười với chú, nhưng chú vẫn chưa cảm thấy thật sự thỏai mái với họ. Chắc là tại
chú chưa quen. Có lẽ phải sống với họ trong nhiều tháng nữa chú mới thực sự cảm
thấy đây là thế giới của chú.
Nghĩ tới đây, Svastika lại mỉm cười. Ở đây ngoài Bụt ra, chú còn cảm thấy thoải
mới với một người khác nữa. Đó là chú Rahula, con trai Bụt, Rahula năm nay mười
tám tuổi, Rahula được theo Bụt tám năm rồi và trên đường tu học, Rahula đã bước
được những bước thật dài. Hiện Rahula là bạn thân nhất của chú. Chính Rahula đã
chỉ cho chú phương pháp quán niệm hơi thở. Rahula giỏi giáo lý và hành trì hơn
chú nhiều nhưng sỡ dĩ Rahula chưa được thọ giới khất sĩ vì tuổi Rahula chưa đến
hai mươi.
Muốn được thành khất sĩ, muốn được thọ giới bhikkhu, nghĩa là giới khất sĩ thì
ít nhất phải là hai mươi tuổi.
Tháng trước khi Bụt ghé vào làng Uruvela tìm Svastika thì gặp lúc Svastika
không có ở nhà, chú đang chăn trâu ngoài ruộng với đứa em trai tên là Rupka.
Chỉ có hai đứa em gái của chú là ở nhà.
Bala là chị Rupka năm nay lên mười sáu, còm Bhima là đứa em gái út năm nay mười
hai tuổi.
Bla nhận ra ngay được Bụt. Nó đòi ra bờ sông tìm anh, nhưng Bụt nói là để Bụt
tự ý đi tìm. Rồi người rủ Rahula cùng đi.
Hôm ấy đi với Bụt còn có hai mươi mấy vị khất sĩ nữa. Ai cũng theo Bụt đi ra bờ
sông. Quả nhiên khi ra tới bờ sông thì Bụt gặp Svastika. Lúc ấy trời đã chiều,
và Svastika đang cùng Rupka tắm cho đàn trâu. Đàn trâu của Svastika chăn có tới
tám con trâu lớn và một con nghé. Hai anh em Svastika cũng nhận ra Bụt ngay tức
khắc.
Svastika cùng Rupka vội chạy đến chắp tay búp sen cúi đầu chào Bụt.
- Các con đã lớn quá, Bụt nhìn hai anh em và mỉm cười một cách thân ái.
Svastika đứng ngây người ngắm Bụt. Vẫn khuôn mặt trầm tĩnh và hai con mắt sáng
ngời ngày xưa. Vẫn nụ cười bao dung và hiền hậu đó. Vẫn những lọn tóc nhỏ xoắn
hình ốc trên đầu. Bụt khoác một chiếc y màu chàm, do nhiều miếng vải may kết
lại. Người vẫn còn đi chân đất như thuở nào, Svastika đưa mắt nhìn các vị xuất
gia đứng sau lưng Bụt. Chú nhận thấy vị nào cũng đi chân trần như Bụt. Vị nào
cũng quấn y màu chàm. Chú để ý thì thấy y của Bụt dài hơn các vị thầy khác độ
một tấc. Đứng gần Bụt là một thầy rất trẻ, trạc tuổi Svastika. Vị thầy này cứ
nhìn chú mà mỉm cười hoài. Bụt xoa đầu Svastika và Rupak. Người bảo người đang
trên đường về thành Vương Xá, tiện đường chiều nầy ghé lại thăm mấy anh em.
Người bảo người sẽ đứng trên bờ sông, đợi hai anh em xuống tắm trâu cho xong
rồi sẽ cùng về nhà.
Trên đường về làng Bụt giới thiệu chú Rahula với hai anh em. Chú Rahula là vị
xuất gia trẻ tuổi nhất hồi nãy trên bờ sông cứ đứng nhìn hai anh em Svastika mà
cười hoài. Rahula thua Svastika ba tuổi nhưng cũng đã cao bắng Svastika. Rahula
chưa thọ giới khất sĩ, nhưng đã thọ giới xuất gia làm s’ramanera, nghĩa là một
vị sa di. Trông chú không khác gì những vị khất sĩ khác. Rahula đi giữa hai anh
em. Chú trao chiếc bát cho Rupak giữ, và chú đặt tay trên vai hai người một
cách thân ái. Chú đã từng được nghe Bụt nói chuyện về gia đình Svastika rồi, và
chú có rất nhiều cảm tình với gia đình này. Cũng vì vậy nên hai anh em Svastika
cảm nhận ngay được thân tình mà Rahula bộc lộ.
Về tới nhà, Bụt hỏi Svastika có muốn theo học với Bụt và gia nhập giáo đoàn
khất sĩ không. Đây là một điều mà Svastika mong ước từ lâu. Mười năm trước,
Svastika đã từng tỏ lộ ước mơ ấy với Bụt. Ngày ấy Bụt cũng đã hứa là sau này sẽ
thừa nhận chú làm học trò xuất gia. Và bây giờ đây Người đã trở lại. Người đã
không quên lời hứa. Các em của Svastika đã lớn cả rồi. Rupak em trai của
Svastika đã có đủ khôn ngoan để một mình chăm sóc bầy trâu. Em gái lớn của Svastika
là Bala cũng có đủ sức để làm một người nội trợ rồi.
Bụt ngồi ngoài sân, trên một chiếc ghế đẩu nhỏ. Tất cả các vị khất sĩ đều đứng
sau lưng người. Nhà của mấy anh em Svastika là một túp lều lụp xụp, vách đất,
làm gì có đủ chỗ để mời tất cả mọi người vào. Rupak đi lùa trâu về nhà ông chủ
trâu, cũng chưa về. Bala nói với Svastika:
- Anh cứ đi theo Bụt và các thầy đi. Tụi em ở nhà cũng đủ sức lo. Thằng Rupak
nó mạnh lắm, mạnh hơn cả anh hồi xưa. Anh đi chăn trâu nuôi tụi em đã hơn mười
năm rồi, không lý bây giờ tụi em không đủ sức để tự lo cho chính mình sao.
Ngồi bên lu nước, con Bhima ngửng lên nhìn chị, không nói năng gì, Svastika
nhìn nó. Con bé năm nay đã lớn. Hồi Svastika mới được gặp Bụt. Bhima còn chưa
đầy tuổi thôi nôi. Bala hồi đó mới sáu tuổi, đã phải vừa ẳm em vừa nấu cơm.
Rupak hồi đó mới có ba tuổi, cả ngày vọc đất vọc cát chơi ngoài sân. Cha chúng
vừa mất được sáu tháng thì mẹ chúng cũng bỏ chúng, ngay sau khi sanh em Bhima.
Svastika mười một tuổi mà đã phải làm chủ gia đình. May mắn mà nó được chăn
trâu cho gia đình ông Rambhul trong xóm. Nhờ chăn trâu giỏi cho nên nó kiếm đủ
thức ăn mỗi ngày cho chính nó và cho các em. Nó còn kiếm được cách xin sữa trâu
cho bé Bhima nữa.
Bhima có khuôn mặt xinh xinh. Thấy anh nhìn mình như có ý dọ hỏi, Bhima mỉm
cười. Nó ngần ngừ một lát rồi nói, giọng nhỏ nhẹ:
- Anh đi với Bụt đi.
Nói xong Bhima quay mặt đi nơi khác, rơm rớm nước mắt. Bhima đã từng nghe anh
nói về dự tính đi theo Bụt để tu học. Nó muốn anh nó được đi, nhưng nó lại buồn
khi biết anh nó sắp đi.
Vừa lúc ấy, Rupak về tới. Rupak nghe được câu nói của em. Nó hiểu tất cả. Nó
nhìn Svastika, và nói:
- Anh cứ đi với Bụt đi.
Mọi người im lặng, Rupka nhìn Bụt nói:
- Bụt cho anh con được đi học với Bụt . Con ở nhà đủ sức lo cho chị và cho em
con rồi.
Và quay sang Svastika, Rupak nháy mắt:
- Nhưng thỉnh thoảng anh phải xin phép Bụt về thăm tụi em.
Thế là vấn đề của Svastika được giải quyết. Bụt đứng dậy xoa đầu Bhima và nói:
- Các con đi ăn cơm và chuẩn bị đi nhé. Sáng mai, ta sẽ trở lại đây đón
Svastika cùng lên đường đi Rajagaha. Bây giờ ta và các thầy khất sĩ sẽ đi về
cây Bồ Đề và sẽ nghỉ đêm trong ấy.
Ra tới cổng, Bụt quay lại. Người nhìn Svastika và nói:
- Ngày mai, con không cần đem theo gì hết. Chỉ cần áo mặc trên người thôi, con
nhé.
Đêm đó, bốn anh em thức khuya. Svastika dặn dò các em đủ điều. Svastika ôm từng
đứa em trong vòng tay, thật lâu. Bé Bhima khóc thút thít trong tay anh. Nhưng
bé lại ngửng lên nhìn anh và mỉm cười. Nó không muốn anh nó buồn. Ánh sáng
chiếc đền dầu tuy tù mù nhưng vẫn soi rõ được nụ cười của bé. Tối hôm đó không
ai nghĩ đến chuyện ăn cơm tối cả, dù Bala đã nấu cơm sẵn cho bốn anh em từ hồi
xế chiều.
Sáng tinh sương hôm sau, khi Svastika vừa dậy thì đã thấy chị Sujata đến thăm.
Chị đến để chào từ giã Svastika, bởi chiều hôm qua trên đường bờ sông chị đã
được gặp Bụt và đã được Bụt báo tin cho biết là Svastika sẽ lên đường theo Bụt
Chị Sujata là con gái của ông hương cả. Chị lớn hơn Svastika hai tuổi, ngày
xưa, chị cũng đã được gặp Bụt hồi người chưa thành đạo, và chị cũng từng giúp
mấy anh em Svastika nhiều lần trong những cơn ốm đau hoạn nạn.
Sujata đem đến tặng Svastika một lọ dầu, nói là để đánh gió những khi bị nhức
đầu. Hai chị em mới nói được vài ba câu chuyện thì Bụt và các thầy tới. Các em
của Svastika cũng đã dậy và sửa soạn để tiễn đưa anh.
Chú Rahula đến ân cần hỏi thăm từng đứa em của Svastika. Chú hứa trong tương
lai nếu có dịp đi ngang qua vùng Gaya
thế nào chú cũng sẽ ghé thăm mấy đứa. Chị Sujata và ba đứa em của Svastika đưa
Bụt và đoàn khất sĩ ra tới bờ sông. Đoàn người theo con đường ven sông để đi về
phía Đông Bắc. Bốn chị em chắp tay chào Bụt, chào các thầy, chào chú Rahula và
chào Svastika. Svastika thấy lòng nao nao. Đây là lần đầu tiên chú Svastika rời
bỏ quê hương. Nghe nói phải đi đến mười hôm mới tới được thành Rajagaha. Bụt và
các thầy khất sĩ đi thật khoan thai. Đi như thế này thì lâu đến là phải. Nhưng
Svastika cũn chậm bước lại. Bước chân Svastika cũng trở nên khoan thai. Lòng
Svastika bây giờ bình yên hơn. Svastika đã một lòng quay về nương tựa Bụt,
nương tựa Pháp và nương tựa Tăng. Svastika đã có đường đi của mình.
Chú quay lại nhìn một lần chót. Bóng của chị Sujata và các em đã khuất sau rừng
cây.
Svastika có cảm tưởng là Bụt đi để mà đi chứ không phải đi để mà tới. Đoàn khất
sĩ đi theo nguời cũng vậy. Không ai tỏ vẻ nóng ruột hoặc hấp tấp muốn cho chóng
tới Rajagaha. Mọi người bước những bước vững chắc, chậm rãi và thanh thản. Đi
như là đi chơi. Không ai tỏ vẻ mỏi mệt. Vậy mà mỗi ngày đoàn người đi được rất
xa. Cứ vào khoảng mười giờ sáng thì đoàn khất sĩ lại ghé vào một thôn xóm bên
đường để khất thực. Họ đi thành một hàng. Bụt đi đầu, tay phải Người nâng bình
bát, Svastika đi chót, ngay sau chú Rahula. Đoàn người trang nghiêm vừa đi vừa
theo dõi hơi thở, mắt nhìn phía trước. Thỉnh thoảng đoàn người dừng lại. Có
người trong xóm đem thức ăn ra cúng dường. Họ đứng nghiêng mình đổ thức ăn vào
trong bình bát của các vị khất sĩ. Có người quỳ xuống bên đường để dâng cúng
thức ăn. Các vị khất sĩ sau khi nhận thức ăn thầm lặng hộ niệm cho người thí
chủ.
Đoàn khất sĩ sau khi khất thực, từ từ đi ra khỏi thôn xóm và tìm tới dưới một
khu rừng hay dưới một bãi cỏ. Họ ngồi xuống thành vòng tròn và chia xẻ thức ăn
đã xin được cho những chiếc bình bát chưa có gì. Chú Rahula từ bờ sông đi lên
mang theo một bình nước đầy. Chú cung kính mang bình nước tới trước mặt Bụt.
Bụt chắp tai lại thành một búp sen. Chú đổ nước trên tay Bụt để Bụt rửa tay.
Rồi chú đến trước các vị khất sĩ, cung kính đổ nước trên tay từng vị. Sau cùng
chú đến đổ nước cho Svastika rửa tay. Sau đó mọi người chắp tay lại để quán
niệm và chú nguyện. Rồi mọi người nâng bát lên ăn. Bữa ăn trang nghiêm và im
lặng. Svastika chưa có bát. Chú Rahula đã chia thức ăn cho Svastika trên một
tàu là chuối tươi.
Thọ trai xong, đoàn khất sĩ tìm nơi nghỉ trưa. Có vị tiếp tục đi thiền hành. Có
vị ngồi thiền tọa dưới gốc cây. Khi nắng bắt đầu dịu xuống, mọi người lại lên
đường. Đoàn người đi chó đến khi bóng chiều ngã thì mới tìm nơi tá túc. Chỗ
nghỉ đêm tốt nhất của họ là một khu rừng thưa. Mọi người đều có mang theo tọa
cụ. Họ ngồi xếp bằng trong tư thế hoa sen để thiền tọa dưới một gốc cây. Có vị
thiền tọa đến quá nửa đêm mới ngả lưng xuống nghỉ trên áo cà sa xếp tư của
mình. Các vị khất sĩ thường mang theo mình một chiếc y khác. Họ dùng y này để
đắp khi trời trở lạnh. Svastika cũng bắt chước mọi người thiền tọa, và chú cũng
học cách ngả lưng ngủ dưới một gốc cây, đầu chú gối trên một chiếc rễ cây.
Buổi sáng thức dậy, Svastika thấy Bụt đã dậy từ hồi nào và đang an nhiên ngồi
tĩnh tọa. Dáng điệu của người trầm tĩnh và an lạc lạ thường. Nhìn quanh,
Svastika thấy nhiều vị khất sĩ cũng đã dậy và đang thực tập thiền quán. Khi
trời đã sáng rõ, mọi người lại xếp y, cầm bát và chuẩn bị lên đường.
Ngày đi đêm nghỉ, như thế được mười hôm thì đoàn người tới thủ đô Vương Xá. Đây
là lần đầu tiên trong đời Svastika thấy nhà cửa phố xá đông đúc như vậy. Xe
ngựa rộn rịp. Tiếng cười tiếng nói vang vang. Tuy nhiên, đoàn khất sĩ vẫn đi
khoan thai, nghiêm chỉnh và tịnh lạc như đi trên một bờ sông hoặc một con đường
giữa hai cánh đồng lúa nơi thôn dã. Nhiều khách bộ hành dừng lại để ngắm đoàn
khất sĩ. Có người nhận ra được Bụt. Họ vội sụp xuống lạy một cách kính cẩn.
Đoàn khất sĩ vẫn an nhiên đi. Rồi đoàn khất sĩ về tới tu viện Trúc Lâm.
Tin Bụt về tới Trúc Lâm
phút chốc đã được truyền đi khắp tu viện. Chỉ trong chốc lát, gần bốn trăm vị
khất sĩ cư trú tại Trúc Lâm đã tề tựu lại tịnh xá của người để thăm hỏi. Bụt
không nói chuyện nhiều, người chỉ hỏi thăm mọi người về hiện trạng tu học và
hành đạo tại Trúc Lâm và tại thành Vương Xá. Rồi người giao Svastika cho thầy
Sariputta. Thầy Sariputta hiện là vị giáo thọ của chú Rahula. Thầy cũng là vị
giám viện của tu viện Trúc Lâm. Hiện thầy đáng hướng dẫn việc tu học cho gần
năm trăm vị khất sĩ tân học, nghĩa là những vị khất sĩ trẻ mới được xuất gia
trong vòng vài ba năm. Người đứng đầu tu viện là đại đức Kondanna.
Chú Rahula có phận sự chỉ dẫn cho Svastika về thể thức sinh hoạt hàng ngày
trong tu viện: cách đi, cách ngồi, cách đứng, cách chào hỏi, cách thiền hành,
cách thiền tọa, và cách quán niệm hơi thở. Rahula cũng chỉ cho Svastika cách
khoác y, mang bát, cách khất thực, chú nguyện rửa bát.
Nội trong ba hôm, Svastika theo sát chú Rahula để học tất cả những thứ đó.
Rahula chỉ dẫn rất tận tình, nhưng Svastika biết rằng để có thể làm được những
việc nầy một cách ung dung và tự nhiên như chú Rahula, chú phải thực tập trong
nhiều năm. Cuối cùng thầy Xá Lợi Phất gọi Svastika vào thảo am riêng của thầy.
Thầy bảo Svastika ngồi xuống trên một chiếc ghế thấp bên cạnh thầy và bắt đầu
giảng cho Svastika về giới luật của người khất sĩ.
Khất sĩ là người từ bỏ đời sống gia đình, nương vào Bụt như người đưa đường chỉ
lối cho mình trong cuộc đời, nương vào Pháp như con đường đưa tới sự thành tựu
đạo nghiệp giải thoát, và nương vào Tăng như đoàn thể của những người cùng đi
trên một con đường chí hướng. Người khất sĩ phải sống đời đạm bạc và khiêm
nhường. Đi khất thực là để thực hiện tinh thần ấy mà cũng là để có cơ hội tiếp
xúc với dân chúng và hướng dẫn moị người vào con đường của hiểu biết và của
thương yêu mà Bụt chỉ dạy.
Mười năm về trước dưới cây Bồ Đề, Svastika và các bạn đã từng được nghe Bụt nói
về đạo giải thoát như con đường của hiểu biết và thương yêu, nên bây giờ chú
hiểu rất chóng những điều mà thầy Sariputta đang giảng dạy. Nét mặt của thầy
nghiêm trang, nhưng hai mắt và nụ cười của thầy bộc lộ rất nhiều từ ái. Thầy
nói sáng ngày mai Svastika sẽ được làm lễ thế phát xuất gia để được gia nhập
vào giáo đoàn khất sĩ. Và thầy dạy cho Svastika học thuộc những câu nói và chú
phải nói trong lễ thọ giới.
Trong lễ thọ giới của Svastika, chính thầy Sariputta, là giới sư, truyền giới.
Chỉ có khoảng trên hai mươi vị khất sĩ tham dự. Bụt cũng đến tham dữ lễ truyền
giới này. Rahula cũng có mặt. Svastika rất sung sướng. Thầy Sariputta làm lễ
xuống tóc cho Svastika. Tay cầm dao cạo, thầy im lặng một lát để chú nguyện rồi
đưa dao cạo một vài đường tóc trên đầu Svastika. Sau đó Rahula nhận trách nhiệm
hoàn tất việc cạo đầu cho vị giới tử mới. Svastika được thầy Sariputta trao cho
ba chiếc y, một chiếc bình bát và một dụng cụ lọc nước. Đã học cách quấn y với
Rahula rồi nên chú mặc y vào người một cách tự nhiên và mau chóng. Chú sụp lạy
trước Bụt và đoàn thể các vị khất sĩ để biểu lộ niềm quý kính và lòng biết ơn
của chú.
Ngay sáng ngày hôm ấy Svastika được tập sự đi khất thực. Chú đã là một bhikkhu.
Quấn y, mang bát, chú gia nhập vào đoàn của vị y chỉ sư của mình, tức là thầy
Sariputta. Rahula là thị giả của thầy Sariputta nên cũng có trong đoàn của chú.
Mấy trăm vị khất sĩ trong tu viện Trúc Lâm chia nhau thành nhiều đoàn, mỗi đoàn
đi khất thực trong một con đường khác nhau của thành Vương Xá. Hôm ấy Bụt không
đi trong đoàn của Svastika.
Vừa bước ra khỏi tu viện, Svastika thấy ngay rằng đi hóa trai là một phương
thức hành đạo. Lập tức chú trở về theo dõi hơi thở. Chú bước từng bước đoan
nghiêm, đôi mắt nhìn thẳng về phía trước. Chú Rahula hiện đi ngay phía sau chú.
Tuy Svastika có ý thức rằng mình là một vị khất sĩ thực thụ, chú cũng biết rất
rõ là kinh nghiệm tu học của chú còn kém xa kinh nghiệm tu học của Rahula. Và
chú thường nguyện nuôi dưỡng đức khiêm cung nơi chú.
Chương 2: Nghệ thuật chăn trâu
Hôm nay trời mát, sau bữa cơm
trưa, ăn trong quán niệm, các vị khất sĩ lặng lẽ đi rửa bát của mình và đem
trải tọa cụ ngoài trời ngồi quây quần quanh Bụt. Tu viện Trúc Lâm có rất nhiều
sóc. Chúng quanh quẩn bên các thầy, không có vẻ gì sợ hãi. Nhiều con sóc leo
lên trên các thân tre, đưa mắt nhìn xuống.
Svastika đưa mắt tìm Rahula. Chú thấy Rahula ngồi ngay trước mặt Bụt. Chú rón
rén đến trải tọa cụ bên cạnh Rahula và nghiêm chỉnh ngồi xuống trong tư thế hoa
sen. Không khí thật trang nghiêm. Không ai nói với ai lời nào, nhưng Svastika
biết rằng ai cũng đang theo dõi hơi thở trong khi chờ đợi Bụt mở lời chỉ dạy.
Bụt ngồi trên một chiếc chõng tre, cao hơn mọi người chừng vai gang tay để mọi
người có thể nhìn thấy. Người ngồi ung dung và uy nghiêm như một con sư tử chúa
ngồi trong bầy sư tử. Người đưa mắt nhìn đại chúng một cách từ hòa. Rồi cái
nhìn của người dừng lại nơi Svastika và Rahula. Bỗng nhiên, Bụt mỉm cười. Người
cất tiếng:
- Hôm nay tôi muốn nói chuyện với đại chúng về việc chăn trâu, và thế nào là
một em bé chăn trâu giỏi. Một em bé chăn trâu giỏi là một em bé có thể dễ dàng
nhận ra được trâu của mình, biết hình tướng của mỗi con, biết cách cọ xát tắm
rửa cho trâu, biết thương yêu trâu, biết tìm bến tốt để cho trâu qua sông, biết
tìm chỗ có cỏ non và nước uống cho trâu, biết bảo trì những vùng thả trâu và
cuối cùng là biết để cho những con trâu lớn làm gương cho nhưng con trâu nhỏ.
Ngưng một lát Bụt tiếp :
- Này các vị khất sĩ! Một vị khất sĩ giỏi cũng phải làm tương tự như một em bé
chăn trâu. Nếu em bé chăn trâu biết nhận ra được trâu của mình, thì người xuất
gia cũng phải biết nhận ra được những yếu tố tạo nên sắc thân của mình. Nếu em
bé chăn trâu biết được hình tướng của mỗi con trâu trong đàn trâu của mình, thì
nguời xuất gia cũng phải thấy được những hành động nào của thân, của miệng, và
của ý là những hành động đáng làm, và những hành động nào là những hành động
không đáng làm. Nếu một em bé chăn trâu biết cách cọ xát tắm rửa cho trâu, thì
người xuất gia cũng phải biết buông xả và gột rửa khỏi thân tâm những tham dục,
si mê và hờn oán…
Trong khi Bụt nói những lời trên, mắt Bụt không rời Svastika, Svastika có cảm
tưởng rằng chú là nguồn cảm hứng cho những lời mà Bụt đang nói. Chú nhớ rằng
ngày xưa chú đã được ngồi bên Bụt hàng giờ, và Bụt đã từng hỏi chuyện chú một
cách tỉ mỉ về công việc chăn trâu và cắt cỏ. Vốn là một vị hoàng thái tử xuất
thân, làm sao Bụt có thể hiểu rõ như thế về nghề chăn trâu, nếu chính chú đã
không kể hết những chuyện đó cho người nghe?
Bụt vẫn nói. Tiếng nói người vừa rõ vừa trong.
Tuy người chỉ nói giọng bình thường, tiếng của người vẫn vọng ra rành mạch từng
âm, không ai là không nghe thấy:
- Nếu em bé chăn trâu biết chăm sóc các vết thương của trâu, thì người xuất gia
cũng phải biết hộ trì sáu căn của mình là mắt, tai, mũi, lưỡi thân và ý, và để
cho sáu đối tượng, tức là sáu trần không thể lung lạc được mình.
Nếu em bé chăn trâu biết cách đốt khói un trâu để trâu khỏi bị muỗi đốt, thì
người xuất gia cũng phải đem đạo lý giải thoát để dạy cho người chung quanh, để
họ tránh được những khổ đau dằn vặt trong thân tâm họ.
Nếu em bé chăn trâu biết tìm
đường đi an toàn cho trâu, thì người xuất gia cũng phải biết tránh những con
đường đưa tới danh lợi, sắc dục, quán rượu và hí trường. Nếu em bé chăn trâu
biết thương yêu trâu, thì người xuất gia cũng phải biết quý trọng những niềm an
vui do thiền tập đưa tới. Nếu em bé chăn trâu biết tìm bến tốt cho trâu qua
sông, thì người xuất gia cũng phải biết nương vào diệu lý bốn sự thật để biết
đến bến bờ. Nếu em bé chăn trâu biết tìm chỗ có cỏ non và nước uống cho trâu,
thì người xuất gia cũng phải biết rằng bốn lãnh vực quán niệm là mảnh đất tốt
nhất để làm phát sinh giải thoát. Nếu em bé chăn trâu biết bảo trì những vùng
thả trâu, không tàn hại phá phách môi trường nuôi trâu, thì người xuất gia cũng
phải cẩn thận và dè dặt trong việc tiếp xúc với quần chúng, và thu nhận của cúng
dường. Nếu em bé chăn trâu biết dùng những con trâu lớn làm gương cho những con
trâu con, thì người xuất gia cũng phải biết nương vào đức hạnh và kinh nghiệm
của các bậc thầy đi trước… Một vị khất sĩ biết làm đúng theo mười một điều vừa
nói, thì có thể đạt đến quả vị La hán trong vòng sáu năm tu học.
Vị khất sĩ trẻ tuổi Svastika lấy làm kỳ lạ. Những điều chú nói với Bụt cách đây
mười năm, Bụt còn nhớ hết. Người đã nhắc lại tất cả những chi tiết, và còn đem
áp dụng vào việc tu học của người khất sĩ. Tuy Bụt đang dạy giáo lý chung cho
đại chúng, nhưng chú có cảm tưởng là Bụt đang dạy riêng cho một mình chú. Chú
nhìn đăm đăm vào mặt Bụt, hai mắt không rời khỏi người.
Những lời Bụt dạy thật hàm súc. Những danh từ như “sáu căn”, “sáu trần”, “bốn
sự thật”, và “bốn lãnh vực quán niệm”… mà Bụt đã xử dụng trong bài pháp thoại,
Svastika chưa hiểu được tường tận. Chú tự bảo là sẽ nhờ chú Rahula giảng giải
cho. Nhưng chú có cảm tưởng là dù sao chú cũng hiểu được khái quát những lời
Bụt dạy. Chú sẽ ôn lại những điều học hôm nay với chú Rahula. Nhưng Bụt đã lại
lên tiếng, Người giải thích thêm về việc chọn con đường an toàn cho trâu đi.
Nếu con đường có quá nhiều gai góc, trâu có thể sẽ bị thương, và những vết
thương có thể làm độc. Nếu em bé chăn trâu không biết cách trị thương cho trâu
thì trâu có thể lên cơn sốt và lăn ra chết. Sự tu học cũng giống như thế. Không
tìm chánh đạo mà đi thì sẽ bị mang thương tích trong thân thể và tâm hồn. Những
vết thương do các độc tố tham sân si làm cho ung thối sẽ có thể làm hư hỏng cả
sự nghiệp giác ngộ.
Bụt ngừng nói. người ra dấu cho Svastika lại gần người. Svastika vâng lời, đến
đứng chấp tay búp sen bên Bụt. Bụt tươi cười giới thiệu chú với đại chúng.
Người nói:
- Mười năm trước, tôi đã được gặp chú Svastika tại rừng Gaya , trước ngày thành đạo. Chính chú
Svastika đã cho tôi những nắm cỏ Kusa để trải làm tọa cụ mà ngồi dưới gốc cây
Bồ Đề. Hồi đó chú mới mười một tuổi. Những điều mà tôi biết về nghệ thuật chăn
trâu là do chú dạy tôi hồi đó. Tôi biết Svastika là một em bé chăn trâu giỏi.
Và tôi tin tưởng rằng vị khất sĩ Svastika hôm nay cũng sẽ là một vị khất sĩ
giỏi trong ngày mai.
Mọi con mắt đổ dồn về phía Svastika. Chú biết là hai tai và hai má chú đang đỏ
bừng.
Mọi người cháp tay búp sen để chào chú. Chú cúi đầu chắp tay đáp lễ.
Bụt kết thúc buổi pháp thoại bằng cách yêu cầu chú Rahula lặp lại những phép
quán niệm hơi thở. Chú Rahula đứng dậy chắp tay. Chú đọc rành mạch từng phép.
Giọng chú sang sảng như tiếng chuông đồng. Đọc xong, chú lại chắp tay cung kính
xá đại chúng. Bụt đứng dậy. Người trở về am tranh. Đại chúng giải tán. Mọi
người thu xếp tọa cụ và trở về vị trí mình. Tại tu viện Trúc Lâm không phải ai
cũng cư trú trong các tịnh xá. Có nhiều vị khất sĩ ngồi thiền và ngủ ngay dưới
các bụi tre. Chỉ khi nào trời mưa các vị mới xếp tọa cụ và tìm vào ẩn mưa ở các
tăng xá hoặc ở giảng đường.
Svastika được thầy Sariputta cho phép ở chung một liêu với chú Rahula. Năm nay
chú Rahula đã chững chạc rồi nên không còn phải ngủ chung một liêu với thầy y
chỉ sư như những năm còn bé. Svastika rất sung sướng được thân cận với Rahula.
Chú thầm cảm ơn vị y chỉ sư. Thầy Sariputta hiểu chú không kém gì Bụt. Hèn gì
ai cũng nói thầy là học trò lớn của người.
Chiều nay sau giờ thiền tọa, Svastika tập đi kinh hành một mình. Chú chọn một
con đường vắng trong tu viện để khỏi phải gặp nhiều người. Trong lúc kinh hành,
chú không được nhất tâm cho lắm, bởi vì chú đã bắt đầu cảm thấy nhớ nhà và nhớ
các em. Hình bóng con đường làng dẫn ra bờ sông hiện rõ trong trí. Hình bóng
của bé Bhima đang cúi mặt xuống gần như khóc. Hình bóng của thằng Rupak một
mình chăm sóc đàn trâu đông đảo của ông Rambhul. Chú cố xua đuổi những hình ảnh
ấy đi để chú tâm vào bước chân và hơi thở, nhưng thỉnh thoảng các hình bóng ấy
lại lảng vảng về.
Chú hơi giận chú là đã không hết lòng tu học đã không xứng đáng với lòng tin
cậy của Bụt. Chú định bụng sau giờ thiền hành sẽ đi tìm chú Rahula để hỏi thêm
về phương pháp nhiếp tâm. Với lại còn có mấy điều Bụt dạy hồi trưa mà chú ghi
nhận chưa được kỹ càng. Rahula chắc chắn là có thể giúp chú. Nghĩ đến Rahula,
chú thấy vững tâm hơn và tự nhiên tâm trí chú trở nên định tĩnh. Giờ đây chú có
thể tập trung được tâm ý vào hơi thở và bước chân một cách dễ dàng hơn trong
việc thực tập thiền hành.
Svastika chưa kịp đi tìm Rahula thì Rahula đã tìm đến chú, Rahula kéo chú ngồi
xuống bên một gốc tre.
- Hồi xế trưa tôi có gặp thầy Ananda. Thầy đã được nghe Bụt giới thiệu về chú
và thầy muốn gặp chú để được nghe chú kể chuyện ngày xưa, hồi chú còn bé và chú
đã được gặp Bụt như thế nào.
- Thầy Ananda là ai vậy hả chú?
- Thầy là một vị vương tử dòng học Sakya, và là em chú bác của Bụt. Thầy xuất
gia bảy năm nay. Thầy học giỏi lắm và rất được Bụt thương. Thầy thường để tâm
săn sóc đến sức khỏe của Bụt, thầy mời anh em mình chiều mai đến thảo am của
thầy đàm đạo. Tôi cũng rất muốn được nghe chú kể chuyện Bụt hồi người còn tu ở
rừng Gaya .
- Thế Bụt chưa kể cho chú nghe sao?
- Có chứ, nhưng người chỉ kể sơ lược thôi. Tôi tin chắc là chú có rất nhiều
chuyện hay để kể lại.
- Chuyện thì cũng không có gì nhiều đâu, nhưng nhớ được điều gì tôi sẽ kể lại
điều ấy. Này chú, thầy Ananda có dễ thương không? Tôi ngại quá.
- Dễ thương lắm, và hiền lắm. Tôi
đã có nói sơ lược về chú và về gia đình chú cho thầy ấy nghe, thầy ấy tỏ vẻ ưa
thích lắm. Thôi nhé, chúng ta sẽ gặp lại nhau ngày mai vào giờ đi khất thực.
Tôi sẽ đi giặt y cho kịp khô.
Rahula đứng dậy, Svastika kéo áo bạn:
- Chú ngồi chơi thêm chút nữa, tôi có mấy điều muốn hỏi chú. Hồi sáng Bụt dạy
rất rõ về mười một điều mà một vị khất sĩ cần phải làm theo. Tôi đã không ghi
nhớ hết mười một điều. Vậy nhờ chú chỉ bảo lại tôi.
- Hồi chiều tôi cũng có nhẩm lại
mười một điều ấy nhưng tôi cũng chỉ nhớ được có chín điều. Thôi thế này nhé,
ngày mai gặp thầy Ananda chúng ta sẽ nhờ thầy nhắc lại.
- Có chắc thầy Ananda nhớ được hết không?
- Chắc chứ! Ai chứ thầy Ananda thì một trăm mười một điều thầy cũng nhớ được
chứ đừng nói mười một điều. Chú mới tới thành ra không biết thầy Ananda đấy
thôi. Thầy có một trí nhớ kinh khiếp lắm; ở đây không có người nào là không
phục. Những điều Bụt nói, thầy ấy có thể trùng tuyên lại vanh vách không sót
một chi tiết nào. Ai cũng xưng tụng thầy là “đệ nhất đa văn” đấy. Hễ ai quên
một điều gì Bụt đã dạy thì người ấy lại tìm đến thầy Ananda. Ở đây lâu lâu đại
chúng lại tổ chức một buổi học ôn lại và mời thầy trùng tuyên lại những bài dạy
căn bản của Bụt.
- Vậy thì chúng ta may mắn quá.
Chúng ta đời đến chiều mai vậy. À mà quên, tôi lại định hỏi chú: làm thế nào để
nhiếp tâm trong khi đi kinh hành?
- Chú muốn nói là khi đi kinh hành chú cứ nghĩ đến những chuyện khác phải
không? Hẳn là chú nhớ tới các em chú ở nhà?
Svastika nắm tay bạn:
- Sao chú thông minh quá! Quả thật tôi có nghĩ đến các em ở nhà. Chiều hôm nay
sao tôi thấy nhớ nhà thế. Tôi rất hối hận đã không nhất tâm với việc tu học.
Tôi cảm thấy xấu hổ với Bụt và với chú lắm.
Rahula cười:
- Chú đừng cảm thấy xấu hổ. Hồi tôi mới đi theo Bụt tôi cũng nhớ mẹ, ông nội và
bà dì của tôi lắm. Có nhiều đêm tôi nằm úp mặt vào vách mà khóc một mình. Tôi
biết mẹ tôi, ông nội và bà dì tôi cũng nhớ tôi lắm. Nhưng mà lâu ngày thì quen
đi.
Rahula kéo Svastika đứng dậy. Chú ôm ngang hông Svastika một cách thân ái:
- Các em chú dễ thương lắm. Chú nhớ nhà là phải. Nhưng rồi chú cũng sẽ quen đi
như tôi. Ở đây chúng ta có nhiều chuyện phải làm lắm. Phải tu và phải học. Có
dịp tôi sẽ kể chuyện mẹ tôi, ông nội tôi và bà dì cho chú nghe. Chú có muốn nghe
không?
Svastika nắm chặt bàn tay của Rahula trong hai tay mình. Chú gật đầu.
Hai bạn chia tay. Rahula đi giặc y.
Svastika đi tìm chổi quét lá tre xung quanh các tịnh xá và gom lá tre lại thành
từng đống.
Chương 3: MỚ CỎ KUSA
Tối hôm đó trước khi đi ngủ, Svastika ngồi trước gốc tre ôn lại những gì đã xảy ra trong thời gian mấy tháng được gặp Bụt trong rừng để chiều mai kể lại cho thầy Ananda và chú Rahula nghe. Chú có cảm tưởng chú không có chuyện gì nhiều để kể. Hồi đó chú mười một tuổi. Mẹ chú vừa mất, chú phải chăm sóc ba đứa em. Em gái út của chú là bé Bhima chỉ đựơc có mấy tháng, Bhima không có sữa uống. Hồi đó Svastika đã được ông Rambhul trong xóm giao cho công việc chăn trâu.

