Pháp môn niệm Phật là thắng phương tiện của Như Lai
Văn Thù Bồ Tát nói: Các môn tu hành không môn nào qua môn niệm Phật. Niệm Phật là “Vua” trong các pháp môn. Đức Quan Thế Âm bảo: Tịnh độ pháp môn hơn tất cả hạnh khác.
Tất cả chúng
sinh đều sẵn đủ trí huệ đức tướng như Phật không khác. Chỉ vì trái giác tánh
theo trần lao, nên toàn thể trí đức chuyển thành vô minh phiền não. Rồi thuận
theo phiền não gây tạo những nghiệp hữu lậu kết thành những quả báo sinh tử
trong tam giới. Từ quả báo sinh tử sinh phiền não rồi lại gây nghiệp hữu lậu...
Vì cớ ấy nên chúng sanh từ vô thỉ đến nay, trải vô lượng vô biên kiếp chịu khổ
mãi trong vòng luân hồi sinh tử.
Vì lòng đại bi,
đức Phật xuất thế thuyết pháp độ sinh. Nguyên bổn tâm của Phật chỉ muốn tất cả
chúng sinh đều thoát hẳn sinh tử luân hồi chứng viên mãn Phật đạo mà thôi. Song
vì chúng sinh căn tánh lợi độn không đồng, trí ngu sai khác nên đức Phật phải
chiều theo cơ nghi mà giáo hóa. Do đó nên pháp môn của Phật nhiều đến vô lượng.
Với chúng sinh
hạng lợi căn đại trí, thời đức Phật dạy Phật thừa để đặng liền viên Phật quả.
Như Thiện Tài trong pháp hội Hoa Nghiêm, Long Nữ nơi đạo tràng Diệu Pháp...
![]() |
Cố
Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh
Với chúng sinh
hạng căn trí kém, thời đức Phật giảng Bồ tát thừa, Duyên Giác thừa và Thanh Văn
thừa, để cho hạng ấy lần lượt tu tập, tuần tự chứng quả.
Với chúng sinh
trình độ quá thấp, thời đức Phật nói Thập thiện Ngũ giới,
Thiên thừa và Nhơn thừa, cho hạng ấy nương theo để khỏi sa đọa vào ác đạo, đặng
còn thân nhơn thiên mà vun bồi thiện căn lần lần. Tương lai nương nơi căn lành
ấy mà tấn tu Thánh đạo; hoặc học Bồ Tát thừa tu lục độ vạn hạnh mà chứng pháp
thân, hoặc y theo Duyên Giác thừa hay Thanh Văn thừa ngộ duyên sanh cùng Tứ đế
mà đặng đoạn phiền não chứng Niết bàn...
Tất cả những
pháp môn ấy, bất luận là Đại thừa hay Tiểu thừa, Tiệm giáo hay Đốn giáo, nơi
hành giả đều phải tự lực tu tập cho đến đoạn thật hết phiền não mới ra khỏi
vòng sanh tử luân hồi. Nếu kiến hoặc tư hoặc còn chừng mảy tơ thời cội gốc sanh
tử vẫn chưa dứt hẳn. Như tam quả Thánh nhơn (A-na-hàm) sau khi sanh lên Bất
Hoàn Thiên, còn phải trải qua nhiều thời gian mới chứng quả A-la-hán. Chứng
A-la-hán rồi mới là thật dứt hẳn cội gốc sanh tử.
Nhưng A-la-hán
chỉ là bậc Thánh Tiểu thừa còn cần phải hồi tâm tu Đại thừa mà cầu Phật đạo:
rèn bi nguyện hiện thân trong lục đạo, tu hành lục độ vạn hạnh, trên cầu thành
Phật, dưới cứu khổ mọi loài, lần lượt chứng các bậc: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa và Đẳng Giác Bồ Tát. Bậc Đẳng Giác lại phải dùng Kim Cang
trí phá một phần sanh tướng vô minh, mới viên mãn chủng trí mà chứng Phật quả
(Diệu giác).
Giáo pháp của
Đức Phật chỉ dạy, từng bậc tu chứng từ phàm lên Thánh, từ Thánh đến Phật, quyết
không thể vượt ngoài tuần thứ kể trên.
Đức Bổn Sư của
chúng ta biết rằng nếu chúng sanh chỉ dùng tự lực để liễu sinh thoát tử, siêu
phàm nhập Thánh thời rất khó đặng, nên ngoài vô lượng pháp môn chỉ thuộc tự lực,
Ngài dạy một pháp môn tự lực nương tha lực rất viên đốn, rất huyền diệu, dễ
thực hành mà thành công cao, dùng sức ít mà mau có hiệu quả, tất cả căn cơ đều
hạp, tất cả Thánh phàm đồng tu. Chính là Pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng
sanh vậy.
Do vì đức Phật A Di Đà có bổn thệ nguyện lực nhiếp thủ chúng
sinh niệm Phật. Nên người dùng tín nguyện mà niệm Phật (tự lực) thời cảm thông
với nguyện lực của Phật, nương nguyện lực của Phật nhiếp thủ (tha lực) liền
đặng siêu thoát sanh tử luân hồi mà sanh về Cực Lạc Tịnh độ. Đã được vãng sanh
tức là cao thăng và bậc Thánh lưu bất thoái, nên gọi là rất viên đốn,([2]) rất
huyền diệu,([3]) và thành công cao.
Nơi pháp môn
này, phương pháp thực hành rất giản tiện, mọi người đều có thể tùy phần tùy sức
mà hành đạo. Chỉ cần chỗ tu cho đúng pháp thời chắc chắn là thành tựu cả, nên
gọi là dùng sức ít, dễ thực hành và mau có hiệu quả. Tổ Thiện Đạo cho rằng
nghìn người tu không sót một. Vĩnh Minh Đại sư công nhận là mười người tu, được
cả mười...
Với Pháp môn
Tịnh độ này, không luận là kẻ trí hay ngu, không luận là Tăng hay Tục, không
luận là sang giàu hay nghèo hèn, không luận là già trẻ nam nữ, không luận là
sĩ, nông, công, thương... Tất cả các giới trong xã hội đều có thể tu tập và đều
có thể thành tựu được cả.
Văn Thù Bồ Tát
nói: Các môn tu hành không môn nào qua môn niệm Phật.
Niệm Phật là “Vua” trong các pháp môn.
Đức Quan Thế Âm
bảo: Tịnh độ pháp môn hơn tất cả hạnh khác.
Mã Minh Đại sĩ
cho rằng: Chuyên tâm niệm Phật là phương tiện siêu thắng của Đức Như Lai.
Long Thọ Tôn giả
nói: “Niệm Phật Tam muội” có đại trí huệ, có đại phước đức, hay đoạn trừ tất cả
phiền não, hay độ được tất cả chúng sanh, “Niệm Phật Tam muội” hay sanh vô
lượng Tam muội cho đến “Thủ lăng nghiêm Tam muội”.
Giác Minh Diệu
Hạnh Bồ Tát nói: Pháp môn niệm Phật là tâm tông của chư Phật, là con đường giải
thoát tắt nhứt của mọi loài.
Ấn Quang Đại sư từng nói: Vì nương Phật lực nên tất cả
mọi người, không kể là nghiệp hoặc nhiều hay ít, không kể là công phu hành đạo
cạn cùng sâu, miễn tin cho chắc, nguyện cho thiết, thời quyết muôn người tu
muôn người vãng sanh không sót một. Còn nếu là bậc đã đoạn hoặc chứng nhơn mà
cầu vãng sanh thời đốn siêu Thập Địa. Bậc Thập Địa mà cầu sanh thời mau viên
Phật quả. Vì thế nên Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ v.v... các đại Bồ Tát
đều nguyện vãng sanh([4]). Đến như những kẻ tạo ác cả đời sắp đọa địa ngục, hồi
tâm niệm Phật cũng được giải thoát, như các ông: Trương Thiện Hòa, Trương Chung
Húc, Hùng Tuấn, Duy Cung v.v...([5])
Hạng người phạm
tội ác ấy mà còn được thành tựu thay, huống là những người chưa quá ác, huống
là những người lành!
Do đây nên thấy
rằng Pháp môn Tịnh độ này nhiếp cả Thánh phàm, nhiếp cả thiện ác, nhiếp cả
chúng sanh, như biển lớn gồm thâu muôn dòng vậy.
Vì Pháp môn Tịnh độ với chúng sanh có sự lợi ích rộng lớn
như thế, nên muôn kinh vạn luận luôn luôn nhắc đến, chư Thánh chư Hiền đồng
nguyện cùng về.
Thật là:
Cửu giới chúng
sanh([6]) rời pháp môn này thời chẳng thể viên thành Phật quả.
Thập phương chư
Phật bỏ pháp môn này quyết không thể độ khắp quần sanh.
Trong Kinh Đại
Tập, Đức Phật có lời huyền ký: “Thời mạt pháp, muôn ức người tu hành, khó có
một người được giải thoát, chỉ nương nơi pháp môn niệm Phật mà được thoát khỏi
luân hồi”.
Đó là Phật bảo
chúng ta phải tín hướng và thật hành Pháp môn Tịnh độ này vậy. Chúng ta há
chẳng phải là người thời mạt pháp đó ư!
Vì những lẽ như
trên mà biết rằng:
Ngoài môn “niệm
Phật cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới”, quyết định chúng ta hiện đời không
thể siêu sanh thoát tử được. Còn đúng theo pháp môn “niệm Phật cầu sanh” này mà
tu, chắc chắn một đời hiện tại này chúng ta đặng vãng sanh Cực Lạc Tịnh độ và
bảo đảm trên đường thành Phật.
Tổng quát rằng:
“Thiệt vì sanh tử phát Bồ-đề tâm, dùng tin sâu và nguyện thiết mà chuyên trì
hồng danh A Di Đà Phật”. Đây là tông thú chủ chánh của Pháp môn Tịnh độ này.
Tâm hạnh đúng theo đây gọi là tu đúng pháp.
Khi chúng ta
được nghe giáo pháp của Đức Phật dạy về môn Tịnh độ, chúng ta tự nghĩ rằng: Cõi
Ta Bà là chốn ngũ trược ác thế, tam giới như nhà lửa, cõi Dục mà chúng ta hiện
ở đây khác nào một cái hố sâu đầy sình. Ta và mọi người cho đến muôn loại, hiện
tại cũng như dĩ vãng, nhiều đời nhiều kiếp mang lấy không biết bao nhiêu là sự
thống khổ trong vòng sanh tử luân hồi. Ngày nay, ta được thân làm người lại
được nghe biết pháp môn giải thoát mau tắt siêu thắng, ta phải kíp quyết chí y
pháp tu hành, để mình và mọi người đồng thoát ly sanh tử khổ, đồng chứng chơn
thường lạc”. Đây là “Thiệt vì sanh tử mà phát Bồ-đề tâm vậy.
Rồi ta tự nhận
rằng: Thân cùng cảnh ở Ta Bà này đủ điều chướng đạo: dễ sanh phiền não, dễ đắm
nhiễm, dễ gây ác nghiệp; nội những sự già, bệnh, chết, vô thường thiên biến
cũng đủ ngăn trở con đường giải thoát của ta. Còn thân cùng cảnh ở Cực Lạc rất
là lợi đạo: thường được thấy Phật, luôn nghe pháp âm nên tâm thanh tịnh mà định
huệ thành; ở chung với chư Đại Bồ Tát thượng thiện nhơn thời Thánh nghiệp ngày
tăng, chánh hạnh ngày tấn; không già không bệnh, thọ mạng vô lượng vô biên
a-tăng-kỳ kiếp, nên nội một đời một thân thẳng lên đến bậc Đẳng giác bổ xứ
thành Phật.
Ta lại nhận
định: Nguyện lực của Đức Từ Phụ A Di Đà Phật rộng lớn bất tư nghị, nay ta đúng
theo pháp môn niệm Phật cầu sanh Tịnh độ mà tu, quyết đặng Phật nhiếp thọ,
quyết đặng vãng sanh, đã đặng vãng sanh tức là trụ bậc Bất thoái mau thành Phật
đạo, chỉ có nguyện lực của Phật là chiếc thuyền từ có thể đưa ta ra khỏi biển
khổ thôi! Chỉ có cõi Cực Lạc là đại học đường có thể đem ta đến bờ Đại Giác
thôi!
Tự nhận như thế
rồi bền chặt một lòng: nguyện thoát ly Ta Bà ác trược, như người tù muốn ra
khỏi ngục tối không chút quyến luyến; nguyện về đến Cực Lạc thanh tịnh, dường
như trẻ thơ đi lạc mong mỏi được về nhà không chút dần dà.
Nhận định như
vậy, lập nguyện như vậy, đó là “Tin sâu cùng nguyện thiết” đấy.
Bắt đầu từ đây
cho đến trọn đời, tùy trường hợp, tùy hoàn cảnh, tùy sức tùy phần, chí tâm trì
niệm sáu chữ hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật”, coi đó như là một công vụ hết sức
khẩn yếu phải tận lực mà làm. Nếu là người rảnh rang vô sự thì ngày liền đêm,
lúc đi đứng cũng như lúc ngồi nằm, giữ chặt chánh niệm: Phật không rời tâm, tâm
không rời Phật; hoặc niệm ra tiếng hoặc niệm thầm, nhiếp cả sáu căn, Phật hiệu
nối luôn: đây là tương tục chấp trì; niệm như vậy lâu lâu sẽ tự chứng Tam muội:
hiện tiền thấy Phật thọ ký, lâm chung cao thăng thượng phẩm. Còn nếu là người
đa đoan công việc: việc nước, việc nhà v.v... không nhiều giờ rảnh, thời nên
tối và sáng sớm, thực hành phương “Thập niệm”, giữ mãi trọn đời không sót không
bỏ cũng được vãng sanh([7]). Vì Đức Từ Phụ có bổn nguyện: “Chúng sanh ở mười
phương nghe danh hiệu Ta rồi chí tâm tin muốn, nguyện sanh về cõi nước của Ta
nhẫn đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy không được sanh, thời Ta không ở ngôi
Chánh giác”.([8])
Ngoài ra những
người nào ở vào trường hợp chặng giữa, thời châm chước phân thời định khóa mà
thọ trì. Tất cả đều phải cung kính, chí tâm, kỹ chắc trong lúc trì niệm, là
điều kiện khẩn yếu. Hành trì như vậy gọi là “chuyên trì Hồng danh A Di Đà”, và
đây là chánh hạnh.
Người niệm Phật
cầu sanh Tây phương Cực Lạc thế giới còn cần phải làm những
điều lành: có
lòng từ bi giới sát hộ sanh, bố thí, cứu tế, trì trai, giữ giới, hiếu thảo cha
mẹ, kính thờ Sư trưởng, phò trì Tam bảo, lợi mình lợi người, dẹp lòng ngã mạn
tham sân, thêm lớn hòa vui nhẫn nhục, sâu tin nhơn quả, mở mang chánh kiến...
dùng đây làm trợ hạnh([9]).
Tín nguyện đã
có, chánh trợ đã đủ, đến lúc lâm chung, chắc chắn được Đức Từ Phụ cùng Thánh
chúng thừa bổn nguyện lực đích thân đến tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
Dầu Tín, Nguyện
và Hạnh phải đủ cả ba mới được vãng sanh, như cái đảnh ba chân, thiếu một thời
ngã, nhưng nên hiểu thêm rằng: được vãng sanh là do lòng tin sâu chắc, chí
nguyện cho tha thiết để cảm thông với nguyện lực của Phật, còn nơi công hạnh:
ít thời quả thấp, nhiều thời phẩm cao. Do vì công hạnh không hạn cuộc mà chú
trọng nơi tín và nguyện như vậy, nên đoạn trước có nói: “Tất cả người trong tất
cả các giới ở xã hội đều có thể thật hành và đều có thể thành tựu được
cả”([10]) vì tín sâu và nguyện thiết hạng người nào cũng có thể lập được, thập
niệm niệm Phật ở trường hợp nào cũng đều thực hành được.
Nội dung của bộ
“Đường về Cực Lạc” này cũng không ngoài phạm vi “Tín nguyện hạnh”.
Các chương đầu
thuật lại tiền thân của Đức A Di Đà Phật và tả rõ chánh báo cùng y báo trang
nghiêm của Cực Lạc thế giới để mọi người đối với Đức Phật và Tịnh Độ được sự
nhận thật, đã nhận thật tức là tin chắc và chí nguyện tha thiết sẽ do đó mà lập
được. Đến các chương kế thuật lược sử của chư Bồ Tát, chư đại Tổ sư tự thân tu
Tịnh độ mà được thành công, cùng những lời dạy vẽ khuyên nhắc của các ngài, để
mọi người bền vững tín tâm, kiên quyết chí nguyện, cùng hiểu rõ phương pháp
hành trì để thẳng tấn tinh tu. Nhẫn đến các chương về Tứ chúng vãng sanh, và
cuối cùng, chương thích nghi cũng cùng một mục đích ấy.
Phật dạy:
“Nếu người nào
được nghe lời này nên phải phát nguyện: nguyện sanh về Cực Lạc thế giới”
KINH A DI ĐÀ
Phật dạy:
Chúng sanh nào
được nghe lời ta đã nói, nên phải phát nguyện cầu sanh về cõi nước ấy (Cực Lạc).
Vì đặng cùng với
các bậc thượng thiện nhơn như thế (Bổ xứ Bồ Tát) câu hội một chỗ...”
(KINH A DI ĐÀ)
|





.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)
.jpg)



























