Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

Tổ sư Minh Đăng Quang

Tổ Sư Minh Đăng Quang là người sáng lập ra hệ phái Khất Sỹ Việt Nam

Bồ Đoàn của Tổ tại Tịnh Xá Ngọc Thạnh

Điều chưa biết về tổ sư đạo Phật Khất sĩ Việt Nam:

Đức Tổ sư Minh Đăng Quang lập chí nguyện "Nối truyền Thích Ca chánh pháp" khai mở ra hệ phái Phật giáo biệt truyền, thành lập "Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam".

Đạo Phật sau khi du nhập vào Việt Nam, đến gần giữa thế kỷ XX (năm 1944) tại miền Nam Việt Nam, Đức Tổ sư Minh Đăng Quang lập chí nguyện “Nối truyền Thích Ca chánh pháp” khai mở ra hệ phái Phật giáo biệt truyền, thành lập “Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam”.
Ngài có thế danh là Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, ra đời lúc 22 giờ ngày Tân Tỵ 26 tháng 9 năm Quý Hợi 1923 tại làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Cửu Long, Việt Nam (nay là tỉnh Vĩnh Long). Khác với anh chị của mình, mẹ Ngài là cụ bà Phạm Thị Nhàn phải mang thai đến 12 tháng mới sinh ra ra Tổ sư. Mười tháng sau, cụ bà bệnh nặng và qua đời, hưởng dương 32 tuổi. Từ đó về sau Ngài được thân phụ là Nguyễn Tồn Hiếu và bà kế mẫu Hà Thị Song nuôi dưỡng đến ngày trưởng thành. Thuở nhỏ Ngài có trí thông minh khác hơn những trẻ cùng thời, phong cách đi, đứng, ăn, mặc, nói, làm… đều thể hiện đức tính trang nghiêm điềm đạm. Ngài thường tới lui các nhà đạo đức trưởng thượng đương thời để tham vấn đạo lý. Đồng thời Ngài hay ra cái thất nhỏ sau nhà hằng ngày tu tập tham thiền. Có những buổi chiều Ngài thường hướng mắt về chân trời bao la với vẻ mặt đăm chiêu như đang suy nghĩ điều gì mà chưa giải quyết được. Với tinh thần hướng thượng, nhiều lần Ngài xin phép với thân phụ được xuất gia đi tầm chân lý. Thân phụ vì quá thương con nên nhất định ngăn cản. Tuy nhiên, khi 15 tuổi, Ngài vẫn quyết định rời Việt Nam đến Campuchia để cầu đạo. Ngài gặp một vị thầy Việt lai Miên nổi tiếng đạo pháp cao siêu liền cầu xin thọ giáo làm cư sĩ học đạo. Trải qua những cuộc trắc nghiệm cam go, rốt cuộc vị Thầy hoan hỷ tỏ lời khen ngợi và cho ở lại học đạo. Học đạo được bốn năm tại Campuchia, Ngài vừa làm trọn bổn phận với thầy, vừa nghiên cứu Kinh Tạng và đường lối Y Bát chơn truyền của Phật Tăng xưa. Sau đó, Ngài xin phép với Thầy được trở về Việt Nam. “Về nước, nhiều lần Ngài vào hang núi ẩn tu, đồng thời nghiên cứu về đường lối Nam, Bắc Tông Phật giáo. Không chỉ thế, Ngài còn tìm đến những bậc ẩn tu ở những nơi núi non huyền bí, hang động sâu thẳm để tham vấn. Ngài ở vùng Thất Sơn ít lâu thì xuống núi qua đất Hà Tiên định lần ra Phú Quốc, rồi sau đó sẽ tìm sang các nước học đạo truyền giáo. Nhưng khi vừa đến nơi thì đã trễ tàu. Ngài ở lại ra đầu gành bãi biển Mũi Nai ngồi tham thiền bảy ngày bảy đêm quán xét nhân duyên”. Trước cảnh thiên nhiên trời nước bao la, những chiếc thuyền nhấp nhô, bọt nước tụ tán vào một buổi chiều Ngài ngộ nhập Phật pháp chứng đạt lý vô thường, vô ngã, cảnh khổ trầm luân, đầy vơi, có không, còn mất, sống chết, khổ vui của cuộc đời. Chính nơi đây Ngài tỏ sáng lý pháp “Thuyền bát nhã” ngược dòng đời cứu độ chúng sanh. Năm đó Đức Ngài tròn 22 tuổi. Sau đó ngài trở về làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ Tho, thành lập Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam, nối truyền Thích Ca chánh Pháp. Chư Tăng, Ni xuất gia theo Ngài học đạo thời bấy giờ có trên trăm vị, còn Phật tử theo quy y thọ giới tại gia cũng hơn cả vạn người. Tịnh xá được thành lập hơn 20 ngôi tại các tỉnh miền Đông và đồng bằng sông Cửu Long. Ngài hành đạo thuyết pháp độ sanh được khoảng 10 năm thì thọ nạn và vắng bóng. Từ đó, hằng năm ngày mùng 1 tháng 2 âm lịch, hàng môn đồ đệ tử Tăng ni xuất gia và thiện nam tín nữ Phật tử tại gia đồng nhất tâm thành kính thắp nén tâm hương tưởng niệm cuộc đời giáo hóa và ân đức khai sơn sáng lập của Tổ sư.
Một số hình ảnh của đức Tổ sư Minh Đăng Quang:

1/ Thời thơ ấu của Tổ sư 

2/ Tổ Sư chụp cùng gia đình:

3/ Tổ sư truyền đạo tại Vườn măng cụt (Tây Ninh)

4/ Tổ Sư Ngọa thiền tại vườn cây thuộc Tây Ninh

5 Tổ Sư ở Kỳ Viên - Sài Gòn

6/ Tổ Sư đang truyển đạo tại Quận 8 - Tp. HCM

7/ Sư Tổ cùng chư đệ đi hóa duyên khất thực tại nhà phật tử Thiện Hòa - Vĩnh Long

8/ Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang dẫn đoàn tư tăng đi hành đạo tại đồng bằng sông cửu long

9/ Tổ Sư giảng đạo cho các Chư Tăng vào mỗi chiều tại Thốt Nốt - Cần Thơ ( 1950)

10/ Tổ và Trưởng lão Giác Như - Sinh hoạt thường ngày tại Vĩnh Long (1949)

11/ Tổ độ một ngày, một bữa, giữa ngọ


12/ Tổ Sư đang thuyết pháp

13/ Tổ tại tịnh xá Ngọc Viên - Vĩnh Long (15-7 - 1953 Âl)





XÂY DỰNG TỊNH XÁ MỚI

Trương trình xây dựng tịnh xá sẽ khởi công vào năm 2014. Vị trí xây dựng: Tọa lạc tại Phường 1, Thị xã Tây Ninh, Thành Phố Tây Ninh.
Tổng diện tích: 6789m2 
Diện tích xây dựng: 2000m2
Diên tích sử dụng: 2600m2

1/ Chánh Điện: Từ đường bước vào là cổng tam quan, sau đó bước vào Chánh điện.
Diện tích nền là: 292m2. Từ mặt đất bước lên nền cao 1,8m, Từ mí nền bên này qua nền bên kia dài 18,8m2 Mái chia làm ba tầng và mỗi tầng chia ra làm tám mái gắn lại với nhau. Vị trí giữa điện là nơi thờ Phật tổ, bàn thờ này xây cao 1.2m và chia làm ba cấp. Từ ngoài bước vào trong điện bằng 8 cửa giống nhau.
2/ Nhà Pháp ( Giảng đường):
Nhà Pháp nối với chánh điện. Với diện tích nền (ngang 16m x dọc 28m) mái chi làm hai tầng,  nằm ở vi trí giữa, hai bên theo chiều 28m là các cửa sổ và cửa ra vào, nội thất được chia làm 2 phần chính.
Phần thứ nhất là tam cấp bước lên sảnh (ngang 4m x dọc 16m) dùng để thờ Sư Tổ và là bụ giảng pháp. Phần thứ hai là phần dưới thấp hơi phần sảnh, nơi này dùng cho các phật tử ngồi nghe thuyết pháp, phần này có diện tích (ngang 12m x dọc 16m).
3/ Nhà Tăng và Nhà Ni:
Nhà Tăng và nhà Ni nằm hai bên của nhà Pháp, mỗi bên cách nhà Pháp là cái sân ngang 12m, ở giữa sân có hàng cây. Nhà Tăng diện tích nền (ngang 12m x dọc 28m) phần trên có một số phòng (cốc) dùng cho sư già và hành lang dày chạy theo các phòng, phần trên lầu không có phòng dùng cho các tăng. Tương tự như nhà Tăng, nhà Ni nằm đối xứng với nhà Tăng, trệt là nhà bếp và nhà ăn, lầu là nhà Ni.
4/ Nhà thờ Phật A DI ĐÀ - Cửu quyền thất tổ - Nhà nghỉ của Hòa Thượng: 
Quay lại với phần nhà thờ A Di Đà - cửu quyền thất tổ và nhà nghỉ của các Hòa Thượng về công tác. Nằm đối diên với chánh điện Nhà thờ A Di Đà - Cửa quyền thất tổ (ngang 9m x dọc 12m).
5/ Khu vệ sinh: 
Khu vực vệ sinh nằm hai bên cánh gà của Tịnh xá, phía bên phải cánh gà là nhà vệ sinh Tăng, phía bên trái cánh gà là nhà vệ sinh ni.
6/ Cốc và Hòn non bộ:

 - Cốc của các sư nằm phía sau cùng của Tịnh Xá. Các cốc có diện tích (ngang 2,5m x dọc 2,5m) nằm hai bên, chánh giữa là hòn non bộ được xây dựng bằng một hồ nước và ở giữa nổi lên một ngọn núi khá cao 9,9m với diện tích của hòn non bộ là (ngang 14m x dọc 6m).




GIỚI THIỆU ĐÔI NÉT VỀ HÌNH THÀNH TỊNH XÁ


" Bước chân trần lấm bụi đường quê
  Bước chân khất sĩ hóa duyên ta bà"
Năm 1952, nhằm khai mở pháp bảo nhãn tạng hệ phái khất sĩ y bát chân truyền, trên bước đường du phương hóa đạo, Đức Tổ sư đã dừng chân tại mảnh đất Tây Ninh, một vùng đất giáp ranh biên giới Campuchia, vùng đất này quanh năm nắng lửa, mưa dầm. Tại nơi đây, pháp bảo đã chan hòa làm bao người dân xứ biên địa được thấm mùi chân lý. Có một Phật tử pháp danh Kim Ngọc, cảm mến uy đức của Đức Tổ Sư và giáo Pháp đạo Phật khất sĩ đã phát tâm cúng một phần đất nằm trong vườn cây măng cụt trũng thấp, cách chợ Thị xã 1 km, thuộc ấp Thái Ninh, xã Thái Hiệp Thạnh, giờ là Khu phố 1, Phường 1, Thành phố Tây Ninh Tỉnh Tây Ninh để làm nơi chư Tăng tạm nghỉ và dựng một chánh điện bằng tranh lá thô sơ khoảng 36m2 để hành thiện nam tín nữ đến lễ Phật, đọc kinh, nghe Đức Tổ Sư thuyết pháp, kết duyên lành Tam Bảo. Tên "Tịnh Xá Ngọc Thạnh" là do Đức Tổ Sư đặt và cũng là Tịnh Xá duy nhất tại Tỉnh Tây Ninh được Tổ Sư đã ấn chứng khai sơn.
     Trụ một thời gian ngắn, Đức Tổ Sư lại dời gót chân hóa đạo đến nơi khác, Đến năm 1953, Đức Tổ Sư có dịp trở lại Tây Ninh hành đạo. Lúc này, vợ chồng Cư sĩ Thiện Chơn và Quang Ngọc đã phát tâm mua phần đất 5.000m2 giáp ranh phần đất cũ (hiện còn 593m2) để cúng dường. Phần đất này cao ráo, rộng rãi và có đến 40m mặt tiền để cúng dường. Nhưng Tịnh xá chưa kịp dời lên phần đất mới thì Đức Tôn Sư đã vắng bóng.
      Năm 1955, giáo đoàn cử Trưởng Lão Giác Nhơn, Trưởng Lão Giác Bửu và Trưởng Lão Giác Vân về trụ. Trên phần đất mới một cốc nhỏ được cất tạm làm chỗ nghỉ ngơi. sau đó là khai phát tranh cỏ. Đến cuối năm 1955, nền móng mới đắp xong và bắt đầu xây dựng. Vào cuối năm 1956, Tịnh xá được hoàn tất và năm 1957, đại lễ Vu Lan - Tự tứ Tăng được tổ chức trọng thể ở Tịnh xá.

Hiện trạng Chánh điện Tịnh xá Ngọc Thạnh